
 
                         Cổ quyết nói: Người sinh năm Thìn, cung mệnh là Vũ Khúc ở cung Thìn; 
người sinh năm Tuất, cung mệnh là Vũ Khúc ở cung Tuất; người sinh năm 
Sửu, cung mệnh là “Vũ Khúc, Tham Lang” ở cung Sửu; người sinh năm Mùi, 
cung mệnh là “Vũ Khúc, Tham Lang” ở Mùi; đều chủ về lập được chiến công,
 lấy công để khởi nghiệp. Vũ Khúc là sao cô quả, vì vậy không thích hợp với nữ mệnh. Dù có cuộc
 sống hôn nhân, cũng chủ về vợ đoạt quyền chồng. Ở thời hiện đại, thường
 thường là điềm tượng thao túng sự nghiệp của chồng, mà còn chủ về kết 
hôn muộn. “Vũ Khúc, Thiên Phủ” ở hai cung Tí hoặc Ngọ, ở cung Ngọ tốt hơn. Tuy 
cổ quyết nói: “Vũ Khúc, Thiên Phủ” đồng cung chủ về sống thọ, nhưng “Vũ 
Khúc, Thiên Phủ” thủ mệnh ở cung Tí, lại ngại cung phụ mẫu là Thái Dương
 lạc hãm,e rằng còn nhỏ đã mồ côi, hoặc khó được cha mẹ che chở, vì vậy 
không bằng cung Ngọ. “Vũ Khúc, Thiên Phủ” khí rất hoà hoãn, cho nên cổ nhân cho rằng rất 
thích hợp với nữ mệnh. Ở thời hiện đại, bất kể là nam mệnh hay nữ mệnh, 
“Vũ Khúc, Thiên Phủ” mà có sao lộc, lại gặp Thiên Khôi, Thiên Việt, phần
 nhiều chủ về đắc ý trong giới làm ăn kinh doanh. Nếu không có Thiên 
Khôi, Thiên Việt, nhưng gặp Tả Phụ, Hữu Bật cũng cát; gặp Văn Xương, Văn
 Khúc, chỉ chủ về thông minh, không chủ về đắc ý. Đối với “Vũ Khúc, Thiên Phủ”, hai cung đại hạn Thiên Đồng, “Thái Âm, 
Thái Dương” là đại vận có tính then chốt của đời người. Hai cung hạn này
 ưa gặp cát tinh và cát hoá, được vậy thì tuổi trẻ hưởng thụ, trung niên
 và vãn niên phúc trạch cũng dầy. Nếu hai cung hạn này gặp các sao sát, 
kị, hình, thì tuổi trẻ không cát tường, trung niên và vãn niên cũng bị 
ảnh hưởng. Đối với “Vũ Khúc, Thiên Phủ”, các cung hạn Tham Lang, “Tử Vi, Thiên 
Tướng”, Thất Sát, Phá Quân là các lưu niên có tính then chốt. “Vũ Khúc, Tham Lang” thủ mệnh ở hai cung Sửu hoặc Mùi, có Hoả Tinh 
hoặc Linh Tinh đồng độ là rất tốt. Ở cung tài bạch và cung điền trạch 
cũng cát. Cổ quyết nói: “Vũ Khúc, Tham Lang ở tài trạch vị, hoạnh phát 
tiền của”. Không có cát tinh mà có sát tinh, sẽ chủ về hoạnh phát hoạnh 
phá. “Vũ Khúc, Tham Lang” đồng độ với Hoả Tinh, Linh Tinh, gặp sao lộc chủ
 về phú; gặp Thiên Khôi, Thiên Việt, Tả Phụ Hữu Bật chủ về quý, hoặc phú
 nhờ quý mà có. “Vũ Khúc, Tham Lang” Hoá Kị (Vũ Khúc Hoá Kị nặng hơn), gặp Hoả Tinh, 
Linh Tinh, thì luận gặp sát tinh, nhưng còn chủ về thông minh, có nghề 
đặc biệt để mưu sinh. Ở thời hiện đại cũng có thể theo ngành công nghệ, 
khoa học kỹ thuật. Đối với “Vũ Khúc, Tham Lang”, các cung hạn “Thái Dương, Cự Môn”, 
“Thiên Đồng, Thái Âm” là đại vận có tính then chốt của đời người. Vận 
trình lúc còn trẻ tốt hay xấu có thể ảnh hưởng suốt cuộc đời. Đối với “Vũ Khúc, Tham Lang”, các cung hạn Thiên Phủ, “Liêm Trinh, 
Phá Quân”, “Thiên Cơ, Thiên Lương” là các lưu niên có tính then chốt. “Vũ Khúc, Tham Lang” ở cung thân không bằng ở cung mệnh. Nếu gặp các 
sao sát, kị, hình, chủ về cuộc đời nhiều hung hiểm. Nếu đồng độ với Hoả 
Tinh, Linh Tinh, cũng chủ về hoạnh phát liền hoạnh phá. “Vũ Khúc, Thiên Tướng” thủ mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, phần nhiều 
chủ về là người làm việc hưởng lương, chỉ nên làm chức phó, không nên 
một mình cán đáng công việc. “Vũ Khúc, Thiên Tướng” có Văn Xương, Văn Khúc hội hợp, chủ về thông 
minh, tay nghề khéo. Cổ quyết nói: “Vũ Khúc, Thiên Tướng gặp Văn Xương, 
Văn Khúc, thông minh, tay nghề khéo mưu sinh”. Ở thời hiện đại cũng là 
điềm tượng công nghệ, khoa học kỹ thuật. “Vũ Khúc, Thiên Tướng” có Văn Khúc đồng độ, lại gặp các sao đào hoa 
(Thiên Riêu càng nặng), chủ về là người trôi nổi, không yên một nghề. 
Cần phải lấy nổ lực hậu thiên để khắc chế, mới có thể dựa vào nghị lực 
mà sáng lập sự nghiệp. “Vũ Khúc, Thiên Tướng” thủ mệnh cung Dần, Tham Lang thủ cung thân ở 
cung Tí; nếu cung thân có các sao sát, kị hội hợp, thì gặp năm Tí có 
nguy cơ về sông nước, lấy năm có lưu sát tinh xung hội làm ứng nghiệm. “Vũ Khúc, Thiên Tướng” thủ mệnh, nếu cung tài bạch là “Liêm Trinh, 
Thiên Phủ”, mà Liêm Trinh Hoá Kị, nên làm công việc có tính hung sự để 
kiếm tiền. Ở thời hiện đại, các ngành nghề như ẩm thực, y dược, ngoại 
khoa, hoá nghiệm, tang lễ, v.v… đều thuộc “hung sự”; ở thời cổ đại là đồ
 tể, chăn nuôi, v.v… “Vũ Khúc, Thiên Tướng” rất ưa cung thiên di là Phá Quân Hoá Lộc, thì 
tuy có chức phó nhưng cũng có thanh danh, mà cuộc đời phần nhiều gánh 
vác toàn trọng trách khó khăn. “Vũ Khúc, Thiên Tướng” có Văn Khúc đồng độ; đối cung có Thiên Mã, mà 
không có Hoá Lộc, Lộc Tồn; các sao cát và sát tinh lẫn lộn; cổ nhân cho 
là mang linh đinh. Đối với “Vũ Khúc, Thiên Tướng”, các cung hạn “Thái Dương, Thiên 
Lương”, Thiên Cơ, Thái Âm là các đại vận có tính then chốt; các cung hạn
 có Thất Sát, Phá Quân, Tham Lang, Tử Vi là những lưu niên có tính then 
chốt. “Vũ Khúc, Thất Sát” thủ mệnh ở cung Mão, gặp các sao sát, kị sẽ chủ 
về nạn tai bất trắc. Cổ quyết nói: “Các sao ác, sát, hao, tù hội hợp ở 
cung Chấn, chủ về cây đè, sét đánh”. Ở cung Dậu, là điềm tượng vì tranh 
giành tiền bạc mà động võ. Cổ quyết nói: “Vũ Khúc, Kiếp Sát hội Kình 
Dương, vì tiền mà cầm đao”. Cổ quyết còn nói: “Vũ Khúc, Kình Dương, Đà 
La kiêm Hoả Tinh, mất mạng vì tiền”. Đều nói về “Vũ Khúc, Thất Sát” ở 
hai cung Mão Dậu. Tóm lại, “Vũ Khúc, Thất Sát” đồng cung, là tổ hợp sao có nguy cơ. “Vũ
 Khúc, Thất Sát” ở bản cung không có các sao sát, kị, thì thích hợp với 
võ nghiệp, có thể lập công trạng. Đối với “Vũ Khúc, Thất Sát”, các cung hạn “Thiên Đồng, Thiên Lương”, 
Thái Dương, Thái Âm, là những đại vận có tính then chốt; các cung hạn 
“Liêm Trinh, Tham Lang”, “Tử Vi, Phá Quân” và bản cung “Vũ Khúc, Thất 
Sát” là các lưu niên có tính then chốt. Vũ Khúc độc toạ ở hai cung Thìn hoặc Tuất, gặp cát tinh cũng chủ về 
nắm quyền tài chính; gặp sát tinh, là tiểu thương, tuyệt đối không nên 
theo võ nghiệp. Vũ Khúc ở hai cung Thìn hoặc Tuất, ắt sẽ đối nhau với Tham Lang, tính
 chất tương tự như “Vũ Khúc, Tham Lang” ở hai cung Sửu hoặc Mùi. Các đại
 vận hoặc lưu niên có tính then chốt cũng tương tự. Vũ Khúc thủ mệnh ở hai cung Thìn hoặc Tuất, cung thiên di là Tham 
Lang đồng độ với Hoả Tinh, Linh Tinh, không chủ về rời xa quê hương, mà 
chỉ chủ về phát đột ngột. Nếu cung mệnh có Hoả Tinh, Linh Tinh, mới chủ 
về rời xa quê hương để lập nghiệp. “Vũ Khúc, Phá Quân” ở hai cung Tị hoặc Hợi, đồng độ với Hoả Tinh, 
Linh Tinh, chủ về phá tổ nghiệp mà tự lập. Được cát hoá và có sao cát, 
thì cuộc đời phần nhiều gánh vác trọng trách, hoặc thường gánh vác công 
việc quá mức. “Vũ Khúc, Phá Quân” ở cung mệnh hay cung thân, phần nhiều ưa hợp tác 
với người khác. Vì vậy nên xem xét kỹ cát hung của cung huynh đệ. “Vũ Khúc, Phá Quân” ở cung Hợi, phần nhiều chủ về thị phi, không ổn 
định. Nếu cung phụ mẫu là Thái Dương lạc hãm ở cung Tí, cuộc đời thiếu 
sự che chở của cha mẹ, hoặc cấp trên không lấy lòng thành để đối xử với 
mệnh tạo. Nhưng người sinh năm Nhâm, tuy Vũ Khúc Hoá Kị, nhưng Thái 
Dương được Thiên Lương Hoá Lộc vây chiếu, mới chủ về được người ta đề 
bạt, trọng dụng. Cho nên “Vũ Khúc, Phá Quân” Hoá Kị, là cách cục “phản 
bối” thì chủ về cát tường. Đối với “Vũ Khúc, Phá Quân”, các cung hạn Thái Dương, “Thiên Cơ, Thái
 Âm”, Thiên Đồng là những đại vận có tính then chốt; các cung hạn Thái 
Dương, Thiên Lương, “Tử Vi, Tham Lang”, “Thiên Cơ, Thái Âm” là những lưu
 niên có tính then chốt.
 Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Minh Tuyết (XemTuong.net) 


