
Thử
lấy một thí dụ: người có tính tham gian bạc ác là vì có nhiều chủng tử
gian tham bạc ác huân tập nơi tiềm thức (alava), và khi mình quyết tâm
sửa đổi, mình phải cố tạo ra những “thiện nhân bố thí” (tức là tự tạo
ra những “tương vi nhân”) để mà tiêu giảm hoặc tiêu trừ cái sức tàn phá
của những “ác nhân” trong túc nghiệp (nghiệp quá khứ). Nhất là khi
mình từ chối không tạo những “tiếp thụ nhân” (nhân thụ lãnh, thì các
nhân khác cũng khó lòng mà kết hợp để tạo thành ác nghiệp). Bởi vậy,
tôi mới nói trên đây: con người là đấng Tạo Hóa (Le Cr’eateur) của chính mình mà cũng là vật thọ tạo (La Cr’eature) của chính mình. Theo
nhà Phật, luật Nhân Quả không bị hạn chế bởi thời gian: có cái đời
trước trồng Nhân, nhưng cũng đến đời hiện tại mới gặp duyên mà thành
Quả. Có cái đời trước trồng nhân, mà mãi đến đời sau và đời sau nữa mới
thành Quả. Có cái đời này trồng Nhân, lại thành Quả ngay trong đời
này-người ta gọi là Quả báo Nhân tiền. Ta cần phải xem những Duyên, coi
có đầy đủ hay không, mà đoán định sự mau chậm. Bởi
không rõ lẽ ấy, cho nên mới có kẻ thấy có người kiếp này tu nhiều Nhân
tốt (tu nhân tích đức), nhưng lại bị tai họa đau thương. Còn kẻ, kiếp
này làm nhiều điều ác, lại được nhiều may mắn hạnh phúc nên mới kêu
rằng luật Nhân Quả sai lầm. Họ nào có dè: ác báo hay phúc báo đều do
tạo nhân ở kiếp trước mà đến kiếp này mới hưởng được, còn những nhân ác
tạo ở kiếp này chưa đủ thời gian để thành “Quả” ác. Tóm
lại, động lực chính của sự tạo nghiệp là ý thức. Ý thức có một tác
dụng vô cùng mạnh mẽ, nó chi phối tất cả mọi thứ khác, lại có quyền
sáng tạo và thay đổi cả một cuộc đời của con người. Trong giai đoạn
hiện tại, cá nhân phải gánh chịu tất cả những Quả báo của nghiệp quá
khứ (túc nghiệp) và nghiệp hiện tại (hiện nghiệp). Nhưng ý thức với sự
phụ họa của các thức khác trong giai đoạn sống hiện tại, lại cũng có
quyền năng tạo nghiệp mới, để làm động lực cho sự phát sinh sinh mạng
sau này. Theo
nhà Phật, nghiệp quá khứ là nguyên nhân động lực của cái kiếp sống
hiện tại: nó chỉ huy tất cả, thành ra con người giống như một bộ máy bị
một định mạng vô hình chi phối (ta thường gọi là “số mạng”). Cái túc
nghiệp (nghiệp quá khứ) ấy giống như sức của mũi tên đang bay, khi hết
sức nó sẽ rơi xuống. Bởi vậy, tạo nghiệp trong hiện tại, tuy cũng phá
được phần nào nghiệp báo của quá khứ, nhưng nếu vẫn bất lực trước một
định mạng khắt khe, đó là vì sức của mũi tên vẫn còn quá mạnh. Để đánh tan nghiệp ác: Tuy
vậy, nghiệp mới tạo lại có nhiều ảnh hưởng đến sinh mạng của nhiều cá
nhân khác, nên trong sự tự biến (nghiệp riêng) cũng được hưởng về cộng
biến (nghiệp chung) do mình tạo nên, và nhờ vậy cũng phá tan được nhiều
nghiệp chướng do ác tập gây nên. Bởi vậy người ta thường nhận thấy
những ai gây được nhiều công đức xã hội, như gieo rắc mầm tư tưởng “từ
bi hỷ xả”, giúp con người phá được tà kiến, gây được lòng yêu thương
trong loài người, là người tích chứa được nhiều thiện nhân thiện
đức…nên cho dù có gặp tai họa gì cũng được qua khỏi một cách mầu nhiệm.
Đó là nhờ cái công “tự biến” đã gieo được nhiều chủng tử cho mình và
cho chung quanh nên đã gây được một Tự nghiệp và Cộng nghiệp tốt đẹp,
đánh tan được cái mũi tên độc của túc nghiệp (nghiệp quá khứ) của mình.
Trái
lại, cũng như cá nhân có tạo một cách hoàn toàn tự do những giai đoạn
sinh mạng đẹp ở tương lai…thì cá nhân cũng có thể tạo cho mình những
giai đoạn sinh mạng đen tối ở hiện tại và tương lai. Cứ gieo mãi những
mầm mống tư tưởng giải thoát thì sẽ tiêu trừ được tất cả các chủng tử
tập nhiễm (mà lá số tử vi ghi rất kỹ, rất chi tiết), đồng thời huân
sinh và huân trường các chủng tử giải thoát để vượt khỏi cảnh giới vô
minh và sanh diệt. Cũng như Nguyễn Du nói: Đã mang lấy Nghiệp vào thân, Cái nhìn chính đáng vào Tử Vi Nghiên cứu số Tử Vi, với một lối nhìn siêu hình, hình nhi thượng học như trên, lá
Tử Vi của ta có thể giúp ta nhìn rõ cái túc nghiệp (nghiệp quá khứ)
của ta, biết được ta phải làm gì cho hiện tại, để chuyển mê khải ngộ,
chuyển bại vi thắng, chuyển ác vi thiện..chứ không phải tin Mạng một
cách thụ động như nhiều người lầm tưởng. Con
người đã tự tạo lấy nghiệp chướng cho mình, và tự giam lấy mình trong
khám cung chật hẹp, đó là số mạng do mình tạo nên. Lá số Tử Vi giúp ta
thấy rõ: con người là tiểu kiền khôn cùng với: đại kiền khôn, là một lẽ
tương quan vô cùng mật thiết. Ảnh hưởng liên quan giữa ta và xã hội
chung quanh ta, giữa ta và gia đình ta, an hem cùng máu thịt ta, an hem
bạn bè ta, kẻ dưới người trên…đều được ghi rõ ràng. Nhìn vào lá số Tử
Vi, người sành sỏi và am hiểu tận tường phép đoán, không bao giờ nhìn
từ cung mà đoán. Tất cả 12 cung đều chằng chịt như các cơ năng trong
một cơ thể. Nhìn
ở cung Mạng để biết tinh thần hữu thức của mình đã đến đâu, đồng thời
phải nhìn ở cung Thân để biết tiềm lực vô thức của mình như thế nào.
Rồi phải nhìn qua cung Thiên Di, cung Quan, cung Tài (Tam hợp, Nhị
hợp), các cung Thê, Tử, Huynh Đệ và Nô Bộc. Nhìn cung Giải Ách để xem
thiện nhân hay ác nhân cũng như xem ở cung Phúc để tìm hiểu túc nghiệp
của ta rõ ràng. Các vì sao Giải Ách luôn là những phúc tinh, như Thiên
Quang, Thiên Phúc, Ân Quang, Thiên Quý, Nguyệt Đức, Lộc Tồn, thường là
những vì sao tượng trưng cho những thiện đức của lòng ta. Kết luận: Để
tạm kết luận, tôi xin nhường lời cho W.Y.Evanswentz ở Jesus College;
tác giả quyển “Le Livte Tibe’tain de la Grande Libe’ration”. Trong
quyển sách này nói về cuộc đời của vị Phật sống PADMA SAMBHAVA, xin
dịch như sau: “Tiểu
sử của Đức Padma Sambhava sẽ chứng minh ảnh hưởng của khoa Chiêm Tinh
trong đời sống của các bậc Thánh Tăng khác trong phái Đại Thừa, nếu
không nói là của tất cả mọi người Đông Phương hiện nay vẫn còn trung
thành với truyền thống …” Các
nhà Chiêm Tinh thạc học đều cho rằng khoa Chiêm Tinh là khoa quan
trọng nhất trong các khoa bởi ngoài nó, không có một nghệ thuật nào
chân chính hơn. Nhìn khoa Chiêm Tinh, với khía cạnh ấy, tức là họ đã
loại trừ, cho là không xứng đáng với danh hiệu ấy những gì mà hiện nay ở
Tây Phương cũng như phần đông ở Đông Phương thường được gọi là khoa
Chiêm Tinh. Khoa
Chiêm Tinh chẳng những xem Người là một tiểu vũ trụ trong đại vũ trụ,
và cũng là một sản phẩm chịu vô số ảnh hưởng của các vì tinh tú cũng
như của cả vũ trụ, như tất cả mọi sự vật hiện hữu trên đời, là vì mỗi
người là nơi tập trung các ảnh hưởng ấy để kết thành một thể trạng, một
tâm trạng, một thần trạng riêng biệt của mình. Tuy
vậy khoa Chiêm Tinh đâu bắt buộc ta phải tin Định mạng là bậc thầy về
khoa Yoga, và là bậc thầy chỉ huy ảnh hưởng của các tinh tú, bởi họ
biết rõ những ảnh hưởng ấy, nên họ cũng có thể lèo lái được chiếc
thuyền Cứu Rỗi của họ trên mặt bề Nhân Sinh. Như thế họ tránh được các
rạn đá ngầm cũng như các lòng biển cạn, và sẵn sàng chống lại với các
phong ba, các luồng sóng nghịch…để đưa chiếc thuyền của mình đến cảnh
yên ổn của “Bờ Bên Kia”. Mặc dù thể xác, thần trí và hoàn cảnh đều bị ảnh hưởng của các tinh tú, bậc Hiền giả vẫn làm chủ được vận mạng của mình.
Cũng như số phận của chiếc thuyền trên biển cả mênh mông, đều nằm trọn
trong bàn tay điều khiển khéo léo của vị thuyền trưởng, cho nên dù có
ít hay nhiều khuyết điểm và yếu đuối bẩm sinh, vị thuyền trưởng kia vẫn
có quyền tự do điều khiển chiếc thuyền theo chiều hướng mà mình thích,
và dù qua bao nhiêu gian lao cũng sẽ đưa chiếc thuyền về nơi mà mình
muốn thả neo cập bến. Khác
với một số nhà bác học, có một số đông các triết gia và thi sĩ Tây
Phương khác, trong đó có Roger Bacon và Shakespear cũng rất quan tâm
đến các khoa Chiêm Tinh. Cả Thiên Chúa Giáo cũng không thoát khỏi ảnh
hưởng của nó, trong sách sử đã chứng minh rằng, sỡ dĩ các vị Thánh Đông
phương kia tìm đến bái yết Jesus lúc mới sinh là cũng nhờ theo dõi
ngôi sao sáng của Bethle’em. Khi sinh Đức Thích Ca, cũng chính những
nhà Chiêm Tinh này được mời tới để lấy lá số Thái Tử, và họ đã tiên
đoán sau này Ngài sẽ thành, hoặc sẽ là một bậc Đế vương toàn cõi thế
gian, hay là một vị Phật. Trên thân mình Thái tử, họ thấy hiện lên đủ
32 dấu ghi rõ sự nghiệp phi thường sau này của Thái tử, đó là những dấu
hiệu ghi lại công phu của vô lượng kiếp của Ngài ở tiền thân (như nó
đã ghi rõ trên lá số Tử Vi của mỗi chúng ta vậy). Thái
Tử Sidhartha đã bỏ con đường công danh phú quý mà lựa con đường tu
hành nên đắc thành Chánh quả. Tự do của con người là ở chỗ đó. Mình là
“vật thọ tạo” mà cũng là “Đấng Tạo Hóa” của chính mình. Sư rằng: “Họa phúc đạo trời”
Cũng đừng trách lẫn trời gần, Trời xa
Thiện căn ở tại lòng ta…
Cội nguồn cũng ở lòng người mà ra
Có Trời mà cũng có Ta…
(Kiều)
Thu Giang NGUYỄN DUY CẦN
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (XemTuong.net)