Xưa
nay nhiều người vẫn lầm tưởng rằng 12 con giáp có xuất xứ từ Trung Hoa.
Tuy nhiên, mới đây, trong một công trình nghiên cứu về ngôn ngữ Việt cổ
- nhà nghiên cứu ngôn ngữ học Nguyễn Cung Thông phát hiện ra nguồn gốc
12 con giáp có xuất xứ từ Việt Nam.
Ngôn ngữ là “lá bùa” tổ tiên để lại Lý
giải về nguyên nhân dẫn đến việc bị “lẫn lộn” về nguồn gốc 12 con giáp,
ông Thông cho rằng “Với ảnh hưởng quan trọng của nền văn hoá Trung Quốc,
từ đời Hán và sau đó là Đường, Tống... với sức ép của giai cấp thống
trị từ phương Bắc tên 12 con vật tổ đã từ từ được thay thế bằng hình ảnh
con người, mang nặng màu sắc văn hoá Trung Hoa hơn. Từ tính chất cụ thể
của các loài vật láng giềng, 12 con giáp đã trở nên trừu tượng và còn
ảnh hưởng đến vận mạng con người nữa (bói toán). Tuy nhiên, cái vỏ hào
nhoáng của chữ Hán, Hán Việt không thể thay đổi được nền văn hoá bình
dân (khẩu ngữ) trong đời sống người Việt” 12 con giáp thuộc "tác quyền" của người Việt cổ Lâu
nay người ta vẫn lầm tưởng 12 con giáp tượng trưng cho 12 chi trong
hệ can chi có xuất xứ từ Trung Hoa. Tuy nhiên, trước đây đã có các học
giả phương Tây nghiên cứu cho thấy, các con giáp này vốn có xuất xứ
từ phương Nam. Tên 12 con giáp thuộc "tác quyền" của người Việt cổ (Ảnh: Internet) Hà Tùng Long
Theo văn hóa Phương Đông, lịch được xác lập theo chu kỳ thay đổi đều đặn
của Mặt trăng. Do đó 12 con giáp ứng với 12 giờ trong ngày, 12 tháng
trong năm, 12 năm trong một giáp – đó là những nền tảng quan trọng để
tính lịch và là dấu hiệu để nhận đoán về số mệnh của từng người theo
cung Hoàng Đạo.
Trong lịch sử, Việt Nam
và Trung Hoa có một thời kỳ giao lưu văn hoá ít nhất 2000 năm. Những
đợt giao lưu văn hóa cứ tiếp biến và chồng chất lên nhau khiến cho dấu
hiệu nhận biết nét riêng của từng dân tộc rất khó khăn. Thêm vào đó, các
tài liệu xưa không còn nhiều, nếu còn cũng chỉ trong kho thư tịch Hán
cổ khiến cho việc nghiên cứu hết sức rắc rối và phức tạp. Chính điều này
đã đốc thúc nhà nghiên cứu ngôn ngữ Nguyễn Cung Thông cố công đi tìm
cho bằng được những bí ẩn ngôn ngữ của tổ tiên mà theo ông đó là những
“lá bùa” con cháu cần tìm lời giải.
Ông Thông cho biết, ông bắt đầu việc nghiên cứu tiếng Việt của mình vào những năm đầu thập niên 1970 tại nước Australia.
Trong một lần nghiên cứu về nguồn gốc 12 con giáp để lần tìm cội nguồn
tiếng Việt ông đã phát hiện ra một số từ Việt cổ mà người Việt đã dùng
để chỉ về 12 con giáp có nguồn gốc lâu đời trước khi 12 con giáp xuất
hiện ở Trung Hoa. Vào những ngày cuối năm con trâu, tại Viện Việt học ở
thành phố Westminster (California, Mỹ) ông đã có một buổi thuyết trình những khám phá thú vị của mình với chủ đề “Vết tích của tiếng Việt cổ trong tiếng Hán”.
“Tìm hiểu về gốc của tên mười hai con giáp là một cơ hội để ta tìm về
cội nguồn tiếng Việt. Tên 12 con giáp là Tý/Tử, Sửu, Dần, Mão/Mẹo,
Thìn/Thần, Tỵ, Ngọ, Mùi/Vị, Thân/Khôi, Dậu, Tuất, Hợi. Thoạt nhìn thì
thập nhị chi trên có vẻ bắt nguồn từ Trung Quốc vì là những từ Hán Việt,
nhưng khi phân tách các tiếng Việt, và thấy có những khác lạ, tôi đem
so sánh trong hệ thống ngôn ngữ vay mượn thì sự thật không phải vậy” –
ông Thông nói.
Theo ông Thông thì tên 12 con giáp nếu đọc theo tiếng Bắc Kinh và bằng
cách ghi theo phiên âm (pinyin): zi, chou, yín, măo, chén, sì, wè, wèi,
shèn, yòu, xù, hài... hoàn toàn không liên hệ đến cách gọi tên 12 con
giáp trong tiếng Trung Quốc hiện nay. Ngay cả khi phục hồi âm Trung Quốc
thời Thượng Cổ thì vẫn không tương đồng với các cách gọi tên thú vật
thời trước. Như vậy nếu có một dân tộc nào đó dùng tên 12 con thú tương
tự như tên 12 con giáp ngày nay thì dân tộc đó phải có liên hệ rất khăng
khít với nguồn gốc tên 12 con giáp này.
Từ điều này, khởi đầu cho việc nghiên cứu ông đi tìm nguyên do vì sao
trong 12 con giáp của Trung Quốc, con Mèo bị thay bởi Thỏ. “Người Trung
Quốc dùng thỏ thay cho mèo (biểu tượng của chi Mão/Mẹo) vì trong văn hóa
người Trung Quốc thỏ là một loài vật rất quan trọng và thường được ghi
bằng chữ tượng hình là Thố, giọng Bắc Kinh, là từ viết bằng bộ nhân
không có từ để chỉ mèo. Hầu như chỉ có dân Việt mới dùng mèo cho chi
Mão: nguyên âm e hay iê là các dạng cổ hơn của a như kẻ/giả, vẽ/hoạ,
xe/xa, khoe/khoa, hè/hạ, chè/trà, keo/giao, beo/báo... Vì thế mà mèo
cũng là loài vật hiện diện trong đời sống dân Việt thường xuyên hơn” –
ông Thông lý giải.
Vì sao Việt Nam không giữ được “thương hiệu”?
Thực tế, đã từng có nhiều công trình của nhiều tác giả cố gắng chứng
minh văn hóa Trung Quốc có xuất phát từ văn hóa Việt Nam như tác giả Lê
Mạnh Mát qua cuốn “Lịch sử âm nhạc Việt Nam - từ thời Hùng Vương đến
thời kỳ Lý Nam Ðế” hay tác giả Nguyễn Thiếu Dũng với cuốn “Nguồn gốc
Kinh Dịch”... Hầu hết các cuốn sách này đều cho thấy chiều vay mượn văn
hóa là từ phương Nam vào thời thượng cổ, chứ không phải là từ Bắc xuống Nam
(cũng như các nước chung quanh) vào các đời Hán, Ðường lúc văn hoá
Trung Quốc cực thịnh. Tuy nhiên không tác giả nào đề cập đến nguồn gốc
tên 12 con giáp, và rất ít dùng cấu trúc của chữ Hán, Hán cổ cùng các
biến âm trong cách lý giải.
Theo
ông Thông, ngoài hai chi Tý/Tử/chuột, Mão/ Mẹo/mèo là dễ nhận thấy nhất
thì những chi còn lại khi so sánh trong tương quan ngữ âm, ngữ nghĩa
cũng đều cho ra những kết quả khá bất ngờ.
Ví dụ với trường hợp của Thân là chi thứ 9 trong bản đồ Hoàng Đạo. Nếu
xem cách viết chữ Thân bằng bộ điền với nét giữa dài hơn với cách viết
chữ Khôn (một căn bản của Kinh Dịch có từ thời Thượng cổ) thì ta thấy bộ
thổ hợp với chữ Thân hài thanh. Đây là liên hệ trực tiếp giữa Thân và
Khôn, tuy nhiên tiếng Việt cổ có chữ khọn là con khỉ (người Huế hay
người xứ Nghệ hiện nay một số chỗ vẫn còn những câu cửa miệng “tuồng mặt
con khọn” để ám chỉ những người vô tích sự, chẳng làm chẳng nên trò
trống gì). Thành ra, Thân chính là khỉ, tiếng Việt cổ dù biến âm th-kh
rất hiếm gặp trong tiếng Việt ngày nay nhưng nó vẫn còn dấu tích của
những từ cặp đôi như: thân- cận- gần, thận- cẩn (thận trọng, cẩn trọng).
Tương tự với trường hợp của con Rồng. Xưa nay nhiều người vẫn cho rằng
rồng là một con vật tiêu biểu cho vương quyền của phương Bắc và sau đó
nó được chọn làm một trong 12 con vật có mặt trong 12 con giáp của cung
Hoàng Đạo. Nhưng ít ai biết được rằng rồng thực sự là con vật chủ của
người Việt cổ và ngày xưa người Việt đã có những từ ngữ riêng để nói đến
rồng hay thìn. Thìn/Thần dấu tích còn lại trong giọng Bắc Kinh hiện nay
chỉ còn chén – âm này có thể tương ứng với các âm trần, trầm, thần của
Hán Việt. Tuy nhiên, theo nhà nghiên cứu Nguyễn Cung Thông thì nếu phục
hồi âm cổ của Thìn/Thần là tlan (Tiếng Việt cổ - âm r chuyển thành l) và
trăn, lươn (âm ts - mất đi), rắn, trình (loài cá giống con lươn),
rồng/long (nguyên âm o thay cho a như nôm/nam, vốn/bản...) và khuynh
hướng đơn âm hoá để cho ra các dạng từ ghép như tlăn - thằn lằn, tlian -
thuồng luồng... cho thấy vết tích của rồng trong các ngôn ngữ phương
Nam.
Sự phát hiện mới mẻ này đã chứng minh cho sự phát triển của người Việt
xưa trong cách tính lịch và làm nên một nền văn minh lúa nước rực rỡ ở
phía Nam Đông Nam Á.
Khi được du nhập
vào Trung Quốc, qua nhiều lần biến cải, những con giáp này vừa biến dạng
cả chữ viết và hình tượng, cùng với ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa
làm cho mất dần đi nguồn gốc ban đầu của nó.
![]()
Dựa vào nghiên cứu ngữ âm học lịch sử, nhà ngôn ngữ Nguyễn
Cung Thông gần đây đã chứng minh rất thuyết phục rằng tên 12 con giáp
thuộc "tác quyền" của người Việt cổ.
Ví dụ năm Ngọ là năm Ngựa, khác xa với từ Mã của người
Trung Hoa. Đặc biệt là năm Mão/Mẹo hoàn toàn là gốc Việt bị thay bằng
con Thỏ cho phù hợp với quan niệm của người phương Bắc.
Truy tìm gốc gác nhiều tên gọi cũng thấy được xuất xứ ban
đầu của nó trong tiếng Việt cổ, như Tí gắn với Chuột, Dần gắn với Hổ,
Mùi gắn với Dê, Hợi gắn với Lợn, Thìn gắn với Rồng...
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Ngọc Sương (XemTuong.net)


